Truyện Liêu Trai Chí Dị II_kèo nhà cái 2
作者:La liga 来源:Thể thao 浏览: 【大中小】 发布时间:2025-01-10 10:49:46 评论数:
“Liêu Trai chí dị: bút ký tiểu thuyết,ệnLiêuTraiChíDịkèo nhà cái 2 Thanh Bồ Tùng Linh trước, phân thập lục quyển, tứ bách tam thập nhất thiên. Tùng Linh tự Liễu Tuyền, Sơn Đông Truy Xuyên nhân. Ấu hữu dật tài, lão nhi bất đạt, cố thử thư đa tá hồ quỷ chi sự dĩ hãn kỳ bất bình, diệc hữu tùng Đường nhân truyền kỳ chuyển hóa nhi xuất dã. Phả điêu trác tự cú, mô phỏng cổ nhã, cố văn nhân đa hy duyệt chi!” (Liêu Trai chí dị: tập truyện ký, do Bồ Tùng Linh thời Thanh trưóc tác, chia làm 16 quyển, có 431 truyện. Tùng Linh tự Liễu Tuyền, người huyện Truy Xuyên tỉnh Sơn Đông. Lúc trẻ có tài hơn người, nhưng về già vẫn không thành đạt, nên sách ấy phần lớn là mượn chuyện hồ quỷ để phát tiết nỗi bất bình; cũng có khi là dựa theo các truyện truyền kỳ của người. thời Đường, thay đổi lại mà soạn ra. Câu chữ ít nhiều có gọt giũa, phỏng theo lối văn chương phong nhã thời cổ, nên văn nhân nhiều người thích xem).
“Liêu Trai chí dị: tiểu thuyết danh, phàm bát quyển, hoặc tích vi thập lục quyển, kê tứ bách tam thập nhất thiên, Thanh Bồ Tùng Linh soạn. Ký thần tiên hồ quỷ tinh mị cố sự, miêu tả ủy khúc, tự thứ tỉnh nhiên; ngẫu thuật sở văn, diệc đa giản khiết. Mỗi quyển chi mạt, thường xuyết tiểu văn. Cựu thời cực phong hành, kim sảo suy hĩ” (Liêu Trai chí dị: tên tập truyện, gồm 8 quyển, có khi tách làm 16 quyển, tổng cộng 431 truyện, do Bồ Tùng Lỉnh thời Thanh soạn. Nội dung là ghi chép lại chuyện cũ về thần tiên hồ quỷ yêu quái, miêu tả chi tiết, sắp xếp phân minh; có chỗ là kể lại chuyện mình nghe, phần lớn cũng rõ ràng ngắn gọn. Ở cuối mỗi quyển thường thêm lời bình ngắn. Ngày trước được truyền tụng rất rộng rãi, đến nay có giảm đi).
"Liêu Trai chí dị: thư danh, bát quyển, hoặc tích vi thập lục quyển, kê tứ bách tam thập nhất thiên, Thanh Bồ Tùng Linh soạn. Ký thần tiên hồ quỷ tinh mị chi sự, miêu tả ủy khúc, văn từ diễm lệ, tự thứ tỉnh nhiên; ngẫu thuật sở ván, diệc đa giản khiết. Mỗi quyển chi mạt, thường xuyết tiểu văn. Cựu thời cực phong hành" (Liêu Trai chí dị: tên sách, gồm 8 quyển, có khi tách làm 16 quyển, tổng cộng 431 truyện, do Bồ Tùng Linh thời Thanh soạn. Nội dung là ghi chép lại chuyện về thần tiên hồ quỷ yêu quái, miêu tả chi tiết, lời văn đẹp đẽ, sắp xếp phân minh; có chỗ là kể lại chuyện mắt thấy tai nghe, phần lớn cũng rõ ràng ngắn gọn. Ở cuối mỗi quyển thường thêm lời bình ngắn. Ngày trước được truyền tụng rất rộng rãi). "Liêu Trai chí dị: văn ngôn đoản thiên tiểu thuyết tập, Thanh Bồ Tùng Linh tác. Lịch Thành Trương Hy Kiệt đích Chú Tuyết Trai sao bản Liêu Trai chí dị phân vi thập nhị quyển, hữu mục tứ bách bát thập bát thiên. Hiện tồn tối tảo khắc bản vi Thanh Càn Long tam thập nhất niên Thanh Kha Đình bản, tắc phân vi thập lục quyển, tứ bách dư thiên, đãn thiên mục tinh bất hoàn toàn. Giải phóng hậu hoàn phát hiện liễu tác giả đích bán bộ thủ cảo (định cảo bản), tằng ảnh ấn xuất bản, hựu hữu "Hội hiệu hội chú hội bình" bản, sở thu thiên mục hiệu vi hoàn bị. Tác giả dĩ phong phú đích tưởng tượng, tịnh tá giám đương thời lưu hành cố sự dữ tiền nhân chi tác, sáng tạo xuất bất thiểu ưu tú tác phẩm. Cấu tứ kỳ diệu, ngữ ngôn sinh động, dĩ đàm hồ thuyết quỷ đích biểu hiện hình thúc, đối đương thời hiện thực đích hắc ám hòa quan lại đích tội ác phả đa bộc lộ, vu khoa cử chế độ hòa lễ giáo đô hữu sở phê phán; tinh dĩ đồng tình bút điêu miêu hội liễu thanh niên nam nữ chân thành tương ái đích cố sự. Đãn thư trung dã tồn tại trước nhất ta nhân quả báo ứng chi thuyết hòa mê tín sắc thái” (Liêu Trai chí dị: tập truyện ngắn văn ngôn, do Bồ Tùng Linh thời Thanh sáng tác. "Bản sao Liêu Trai chí dị của Chú Tuyết Trai" của Trương Hy Kiệt ở Lịch Thành chia làm 12 quyển, có mục lục gồm 488 truyện. Bản in sớm nhất hiện còn là bản của Kha Đình thời Thanh in năm Càn Long thứ 31 (1766) thì chia làm 16 quyển, hơn 400 truyện, nhưng mục lục cũng không đầy đủ. Sau ngày giải phóng (tức 1949, năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) lại phát hiện được nửa bản viết tay của tác giả (bản thảo hoàn chỉnh), từng in ảnh xuất bản, lại có bản Hội hiệu hội chú hội bình thu thập mục lục đầy đủ hơn cả. Tác giả lấy trí tưởng tượng phong phú, mượn các truyện cổ lưu hành đương thời và các sáng tác của người trước mà sáng tạo ra không ít tác phẩm ưu tú. Kết cấu hay lạ, lời lẽ sinh động, lấy hình thức biểu hiện là chuyện yêu ma hồ quỷ, vạch trần sự đen tối của hiện thực và tội ác của quan lại đương thời, đối với chế độ khoa cử và lễ giáo đều có sự phê phán; lại tỏ thái độ đồng tình khi miêu tả những chuyện cổ về tình yêu chân thành của thanh niên nam nữ. Song trong sách cũng còn tồn tại một ít quan niệm nhân quả báo ứng và màu sắc mê tín). "Liêu Trai chí dị: Thanh đại kiệt xuất đích văn ngôn đoản thiên tiểu thuyết tập. Tác giả Bồ Tùng Linh, thư thành vu Khang Hy niên gian. Thư phân thập nhị quyển, kê tứ bách cửu thập nhất thiên, 1962 niên Trung Hoa thư cục bài ấn bản. Thư trung cố sự đại đa dĩ hồ tiên quỷ mị vi đề tài, cấp phú lãng mạn chủ nghĩa sắc thái nhi hựu câu hữu phong phú đích nội dung hòa thâm khác đích hiện thục chủ nghĩa. Nội dung bao quát đối tham quan ô lại sĩ hào thế thân dĩ cập phủ hủ đích khoa cử chế độ đích khể lộ, đối thanh niên nam nữ chân chính ái tình hôn nhân đích nhiệt tình ca tụng; thử ngoại hoàn hữu nhất ta hữu giáo đục ý nghĩa đích ngụ ngôn cố sự đẳng. Giá ta nội dung chủ yếu bộc lộ liễu phong kiến xã hội đích hắc ám hòa hủ bại, dĩ cập tác giả đối lý tuởng thế giới hòa mỹ hảo nhân vật đích truy cầu, ca tụng. Tiểu thuyết sung mãn kỳ dị khôi lệ đích ảo tưởng, tố tạo nhân vật hủ hủ nhi sinh, hô chi dục xuất, tình tiết điệt đãng đàng ná, sinh động đa biến. Ngử ngôn tinh luyện hàm súc, văn bút lưu sướng truyền thần, “Tả quỷ tả yêu cao nhân nhất đẳng, thích tham thích ngược nhập cốt tam phân", câu hữu độc đặc đích phong cách, tại ngã quốc tiểu thuyết sử thượng chiếm hữu hẩn cao đích địa vị. Đãn thư trung dã tồn tại truớc phong kiến luân lý quan niệm hòa phong kiến sắc thái" (Liêu Trai chí dị: tập truyện ngắn văn ngôn kiệt xuất thời Thanh. Tác giả là Bồ Tùng Linh, sách hoàn thành trong đời Khang Hy (1662-1722). Sách thia làm 12 quyển, gồm 491 truyện, năm 1962 Trung Hoa thư cục đã sắp xếp xuất bản. Truyện trong sách phần lớn là lấy đề tài hồ tiên ma quỷ, có nhiều màu sắc của chủ nghĩa lãng mạn, lại mang nội dung phong phú và chủ nghĩa hiện thực sâu sắc. Nội dung nói chung là tố cáo bọn tham quan ô lại, cường hào ác bá và chế độ khoa cử mục nát, nhiệt tình ca ngợi tình yêu và hôn nhân chân chính của thanh niên nam nữ, ngoài ra còn có một ít truyện cổ loại ngụ ngôn có ý nghĩa giáo dục. Nội dung nói trên chủ yếu là vạch trần sự đen tối và mục ruỗng của xã hội phong kiến đồng thời nói lên sự mong mỏi, ngợi ca của tác giả về một thế giới lý tưởng và những con người tốt đẹp. Tập truyện đầy ắp những sự tưởng tượng lạ lùng đẹp đẽ, nhân vật được sáng tạo sống động chân thực, tình tiết bất ngờ biến ảo. Lời lẽ gọt giũa hàm súc, văn chương trôi chảy linh hoạt, "Tả quỷ tả ma cao bậc nhất, châm tham châm bạo thấu vào xương” đều có phong cách độc đáo đặc biệt, chiếm địa vị rất cao trong lịch sử truyện ngắn của nước ta. Nhưng trong sách cũng còn tồn tại quan niệm luân lý phong kiến và màu sắc phong kiến).
"Liêu Trai chí dị: Thư danh, Thanh Bồ Tùng Linh (1640-1715) trước. Đoản thiên tiểu thuyết tập, thập nhị quyển, nhất tác thập lục quyển, cộng tứ bách tam thập nhất thiên. Tối tảo hữu Chú Tuyết Trai sao bản, Càn Long tam thập nhất niên (1766 niên) Thanh Kha Đình khắc bản, nhị giả phân quyển, thiên mục lược dị. 1949 niên hậu phát hiện bán bộ thủ cảo, 1955 niên do Văn học Cổ tịch san hành xã ảnh ấn, 1978 niên Thuợng Hải Cổ tịch xuất bản xã hữu Trương Hữu Hạc tập hiệu "Hội hiệu hội chú hội bình" bản, hiệu hoàn bị. Cai thư hàm truyền kỳ, chí quái, dị sự đẳng nội dung. Nhiên đa tả hồ quỷ, yêu biến, dị quái cố sự, nghệ thuật thủy bình trăn chí văn ngôn tiểu thuyết đỉnh phong" (Liêu Trai chí dị: tên sách, Bồ Tùng Linh (1640-1715) thời Thanh sáng tác, là tập truyện ngắn, gồm 12 quyển, có khi chia làm 16 quyển, cộng 431 truyện. Cổ nhất có bản sao của Chú Tuyết Trai, năm Càn Long thứ 31 (1766) Kha Đình khắc bản, hai bản chia quyển, mục lục hơi khác nhau. Sau 1949 phát hiện được nửa bản viết tay của tác giả, năm 1955 Văn học cổ tịch san hành xã in ảnh xuất bản, năm 1978 Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã có bản "Hội hiệu hội chú hội bình" của Trương Hữu Hạc tập hợp so sánh các bản, đầy đủ hơn cả. Sách này mang nội dung truyền kỳ, chí quái, việc lạ, nhưng phần lớn kê chuyện cổ hồ quỷ, yêu ma, quái dị, về trình độ nghệ thuật thì đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết văn ngôn).
Trên đây là sáu định nghĩa về mục từ "Liêu Trai chí dị” nêu trong sáu quyển từ điển của Trung Hoa mà theo thứ tự là Từ nguyên (Chính tục biên hợp đính bản), Thương vụ ấn thu quán xuất bản, Thượng Hải, 1939; Từ hai (hợp đính bản), Trung Hoa thư cục xuất bản, Thuợng Hải, 1948; Trung văn đại từ điển. Trung Quốc văn hóa Nghiên cứu sở xuất bản, Đài Bắc, 1962 Từ hải, Tân thư xuất bản xã, Thượng Hải, 1989; Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển, Tác giả xuất bản xã, Bắc Kinh, 1991 và Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển, Quảng Tây dân tộc xuất bản xã, 1994. Dễ nhận ra rằng đặc điểm về mục đích và hoàn cảnh biên soạn riêng biệt của mỗi quyển từ điển đã dẫn tới những khác biệt giữa các định nghĩa nói trên, sự khác biệt thể hiện và phản ảnh quá trình nhận thức và tìm hiểu của người đọc Trung Hoa về Liêu Trai chí dị, song tựu trung sáu định nghĩa ấy đều đề cập tới bốn yếu tố là văn bản, nội dung, ý nghĩa và nghệ thuật của tác phẩm. Việc tìm hiểu giá trị tác phẩm khởi đi từ tổng thể các yếu tố ấy có thể góp phần làm sáng tỏ thêm giá trị và ảnh hưởng của Liêu Trai chí dị, một kiệt tác hàng trăm năm qua từng làm say mê nhiều người đọc Việt Nam.
Về văn bản, Liêu Trai chí dị có một nét đặc biệt. Theo Từ hải 1989 và Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991 thì Liêu Trai chí dị gồm 12 quyển, 488 hay 491 truyện. Các con số trên rõ ràng là dựa theo bản Hội hiệu hội chú hội bình, mà bản này dựa trên cơ sở nửa bản chép tay của Bồ Tùng Linh được phát hiện sau 1949. Tuy nhiên, sự ghi nhận về văn bản Liêu Trai chí dị ở Trung Quốc cũng khá phức tạp. Chẳng hạn Từ nguyên năm 1939 kể là có 16 quyển, 431 truyện, Từ hải 1948 kể là có 8 hoặc 16 quyển, 431 truyện, đến Trung văn đại từ điển xuất bản ở Đài Loan năm 1962 thì vẫn kể ra 8 hoặc 16 quyển, 431 truyện như Tù hải 1948. Tù hải 1989 không nêu rõ, nhưng cũng cho rằng bản Hội hiệu hội chú hội bình là đầy đủ hơn cả, tức cũng tán thành con số 12 quyển, 491 truyện như Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991. Nhưng Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển 1994 lại kể ra 12 (hoặc 16) quyển, 431 truyện, nghĩa là lại quay về với các văn bản truyền thống. Nét đặc biệt này không gì khác hơn là ánh phản của quá trình phổ biến Liêu Trai chí dị ở Trung Quốc nói riêng và ở các quốc gia dùng chữ Hán trước đây nói chung. Chúng tôi không có được các bản in Liêu Trai chí dị 12 quyển để đối chiếu, nhưng Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển có kể ra một số truyện thuộc "Văn hóa Ma Trung Quốc” theo mục lục của các bản này, cụ thể như sau:
Khảo Thành hoàng, Thi biến, Đồng nhân ngữ, Giáo quỷ, Vương Lục lang, Trường Thanh tăng, Tăng nghiệt, Tú thập thiên, Vương Lan, Ung hổ thần, Hoa bì, Thiểm Hữu Mỗ Công, Miếu quỷ, Lục phán, Nhiếp Tiểu Thiến, Thủy mãng thảo, Cảnh Thập bát thuộc quyển I.
Châu nhi, Liên Hương, Trương Thành, Xảo nương, Ngô huyện nhị Thành hoàng, Lâm Tứ nương thuộc quyển II.
Giang trung quỷ quái, Lỗ Công nữ, Lý Trung Chi, Lý Bá Ngôn, Liên Toa, Nê quỷ, Liên Thành, Hoắc sinh, Dụ quỷ, Lý Tư giám thuộc quyển III.
Công Tôn Cửu Nương, Xúc chức, Thổ địa phu nhân, Tục hoàng lương, Liễu Tú tài, Phong Đô Ngự sử, Kỳ quỷ, Tửu cuồng Mục sinh, Bố khách thuộc quyển IV. Chương A Đoan, Lý Thường Cửu kiến Diêm Vương, Thổ ngẫu sinh tử, Trường Trị nữ tu, Ngũ Thu Nguyệt, Liễu thị tử, Đậu thị thuộc quyển V.
Thu Dung dữ Tiếu Tạ, Ải quỷ, Khao tệ ty, Hướng Cảo, Nhiếp Chính xích quyền quý thuộc quyển VI. Mai nữ hòa Phong Vân Đình, Tư tăng bão Phật đầu, Ngưu Thành Chương, Kim Cô phu, Diêm La hoăng, Chu Thương bình oan ngục, Hoạn Nương thuộc quyển VII. Quỷ thê, Chư sinh, Tư văn lang, Trần Tích Cửu, Chu Khắc Xương thuộc quyển 8. Vu Khứ ác, ái Nô, Lưu phu nhân, Ấp nhân tao lăng trì thuộc quyển IX. Bố thương bị cứu, Tịch Phương Bình, Long Phi tướng Công, Thân thị, Nhiệm Tú thuộc quyển X. Vãn Hà dữ A Đoan, Vương Thập, Gia Bình Công tử, Chiết lâu nhân thuộc quyển XI. Lão Long thuyền hộ, Cổ bình, Nguyên Thiếu tiên sinh, Tiết Ủy nương, Điền Tử Thành, Lưu Toàn, Hoàn hầu yến tân, Cẩm Sắt, Phòng Văn Thục, Công Tôn Hạ thuộc quyển XlI.
Ngoài một số truyện có tên khác với trong các bản 16 quyển như Giang trung quỷ quái (Giang trung, quyển XIV), Lý Trung Chi (Diêm La, quyển XIV), Tửu cuồng Mục sinh (Tửu cuồng, quyển XlV), Lý Thường Cửu kiến Diêm Vương (Diêm Vương, quyển XV), Thổ ngẫu sinh tư (Thổ ngẫu, quyển XV), Thu Dung dữ Tiểu Tạ (Tiểu Tạ, quyển IX), Nhiếp Chính hách quyền quý. (Nhiếp Chính, quyển VIII), Mai nữ hòa Phong Vân Đình (Mai nữ, quyển VII), Tử tăng bão Phật đầu (Tử tăng, quyển XIV), Chu Thương bình oan ngục (Oan ngục, quyển IX), Ấp nhân tao lăng trì (ấp nhân, quyển XVI), Bố thương bị cứu (Bố thương, quyển XI), Vãn Hà dữ A Đoam (Vãn Hà, quyển IV), Hoàn hầu yến tân (Hoàn hầu, quyển XII), thì theo nội dung được tóm tắt, có một số truyện không thấy có trong các bản 16 quyển như Ngô Huyện nhị Thành hoàng, Dụ quỷ, Thô địa phu nhân (ngoài ra, bản dịch Liêu Trai chí dị ra chữ quốc ngữ la tinh vào loại sớm nhất ở miền Bắc là Tân Liêu Trai của Vũ Hi Tô * dịch 8 truyện Hương Ngọc, Thư si, Lỗ Công nữ, Phòng Dỹ, Phượng Tiên, Lục y nữ, Chúc Thanh, Chức Thành thì truyện Phòng Dỹ cũng không thấy có trong các bản Liêu Trai chí dị 16 quyển). Tuy nhiên, đó chính là các truyện Ngô lệnh, Dụ quỷ, Nữ quỷ trong Liêu Trai chí dị thập di **. Nhưng đáng nói là chính Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển cũng vừa ghi nhận các truyện Ngô Huyện nhị Thành hoàng, Dụ quỷ, Thổ địa phu nhân trong Liêu Trai chí dị vừa ghi nhận các truyện Ngô lệnh, Dụ quỷ, Nữ quỷ trong Liêu Trai chí dị thập di: rõ ràng các bản Liêu Trai chí dị 12 quyển đã gộp cả Liêu Trai chí dị thập di. Tóm lại Liêu Trai chí dị 12 quyển là sự hợp nhất Liêu Trai chí dị và Liêu Trai chí dị thập di của Bồ Tùng Linh. Có lẽ sau khi biên soạn Liêu Trai chí dị thập di, Bồ Tùng Linh đã tiến hành hợp nhất cả hai làm một với kết cấu 12 quyển có sửa chữa, bổ sung. Công việc này hoặc chưa hoàn tất, hoặc một nửa bản thảo của bản "tập đại thành” nói trên đã bị mất. Cần nói thêm rằng bản Hội hiệu hội chú hội bình cũng có những chỗ chưa hợp lý: nhan đề truyện Mai nữ đã đuợc đổi thành Mai nữ hòa Phong Vân Đình (Cô gái họ Mai và Phong Vân Đình), từ “hòa" (và) này không phải của văn pháp văn ngôn thời Bồ Tùng Linh mà là của văn chương bạch thoại... Rõ ràng vấn đề văn bản Liêu Trai chí dị chưa phải đã chấm dứt ở bản Hội hiệu hội chú hội bình, nên tình hình nói trên cũng cho phép người ta yên tâm khi đọc các văn bản truyền thống gồm Liêu Trai chí dị và Liêu Trai chí dị thập di.
* Tân Liêu Trai, Transcrit en quốc ngữ par Vũ Hi Tô, 1er édition, Đỗ Văn thư quán (ấn). Sửa lại và giữ quyền lợi: Phù Văn Librairie, Hà Nội, 1921-1922. Tất cả 2 quyển, quyển 1 có các truyện Tích nàng Hưong Ngọc (Hương Ngọc), Thư si, Lỗ Công nữ, Phòng Dỹ (?), quyển 2 có các truyện Phương Tiên, Lục y nữ, Chúc Thanh, Chúc Thành.
**. Ở đây chúng tôi theo văn bản trong Liêu Trai chí dị thập di, Minh Đức Đồ thư Công ty xb., Hương Cảng, 1961.
Về Liêu Trai chí di thập di, Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển định nghĩa như sau “Liêu Trai chí dị thập di. Thư danh, Thanh Bồ Tùng Linh soạn, bút ký tiểu thuyết tập, nhất quyển. Cai thư vi Liêu Trai chí dị thập di bộ phận, hữu Dân quốc so niên Thượng Hải Tiến bộ đồ thư cục thạch ấn bản, Bút ký tiểu thuyết đại quan bản. Nội dung đồng tiền thư, thư trung thu hữu Dụ quỷ, Nữ quỷ, Quỷ lại đảng đa điều quỷ thoại" (Liêu Trai chí dị thập di. Tên sách, Bồ Tùng Linh thời Thanh soạn, là một tập bút ký tiểu thuyết, một quyển. Sách này là phần bổ sung của Liêu Trai chí dị, có bản thạch ấn của Thượng Hải Tiến bộ đồ thư cục và bản Bút ký tiểu thuyết đại quan đầu thời Dân quốc. Nội dung cũng như sách trước, thu thập nhiều chuyện ma nhu Dụ quỷ, Nữ quỷ, Quỷ lại). Theo bản Liêu Trai chí dị thập di, Minh Đức Đồ thư Công ty tái bản, Hương Cảng, 1961 mà chúng tôi sử dụng, quyển Thập di này có tất cả 68 truyện (xem Mục lục)
Về con số 431 truyện thì có điểm hơi lạ, vì bản Tường chú Liêu Trai chí di đồ vịnh, Quảng Trí thư cục, Hương Cảng, 1961 (ảnh ấn lại bản in thạch bản Tường chú Liêu Trai chí dị đồ vịnh năm Quang Tự thứ 12 - 1886, gọi tắt là bản Hương Cảng) và bản Túc bản Liêu Trai chí dị, Đại Trung Quốc Đồ thư Công ty, Đài Bắc, 1963 (gọi tắt là bản Đài Bắc) đều có 432 truyện (Từ điển tác gia văn học và sân khấu nước ngoài, Hữu Ngọc chủ biên, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1980 cũng ghi nhận con số này). Trong hoàn cảnh tư liệu hiện nay chúng tôi chưa tìm hiểu được vấn đề nói trên, nên căn cứ vào thực tế văn bản của hai bản Hương Cảng và Đài Bắc có trong tay, tạm thời chấp nhận con số 432 truyện. Như vậy, kể cả 68 truyện trong quyển Thập di, Liêu Trai chí di có đúng 500 truyện, không kể một số truyện trong các tài liệu khác được chép phụ vào. Tìm hiểu văn bản Liêu Trai chí dị ngoài tác dụng góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành của tác phẩm còn ít nhiều có tác dụng trực tiếp trong việc tìm hiểu nội dung và ý nghĩa các truyện trong tác phẩm. Nhìn từ kết cấu hình thức, các truyện trong Liêu Trai chí dị gồm hai loại: một loại có lời bình của tác giả, phần nhiều có ghi "Dị Sử thị nói" (193 truyện, trong đó phần Thập di có 7 truyện, nếu kể cả nhũng truyện có lời bình nhưng không ghi “Dị Sử thị nói" như Phục hỏa trong quyển II, Thủy tai trong quyển III, A Hà trong quyển VI, Thâu đào, Khâu kỹ trong quyển XIII thì có trên 200) và một loại chỉ có phần “chí dị”. Quan sát các bản 16 quyển, có thể thấy các truyện có lời bình "Dị Sử thị nói" tập trung trong khoảng mười hai quyển đầu (121/233 truyện), các truyện này nhìn chung khá dài, có bố cục chặt chẽ, cốt truyện rõ ràng, còn các truyện không có lời bình chủ yếu tập trung ở bốn quyển cuối (134/199 truyện) và quyển Thập di (61/68 truyện), nội dung khá đơn giản, thậm chí có khi chỉ gồm vài mươi chữ. Rõ ràng Liêu Trai chí dị còn đang trong giai đoạn bổ sung, sửa chữa, nhất là những truyện chỉ có phần "chí dị". Nói một cách hình tượng thì Liêu Trai chí dị giống một bộ tranh liên hoàn đang vẽ dở dang, có bức đã tỉa tót tô điểm tới từng chi tiết, nhung có búc chỉ mới có vài nét phác họa đầu tiên. Tình hình văn bản chưa hoàn chỉnh như vậy một mặt dễ đưa tới nhũng ngộ nhận về nội dung cụ thể của từng truyện, mặt khác cũng ít nhiều hạn chế việc tìm hiểu ý nghĩa đích thực của toàn bộ tác phẩm.
Về nội dung, các truyện có lời bình trong Liêu Trai chí dị nói chung mang màu sắc đạo đức, lên án bọn tham quan ô lại, phê phán những thói hư tật xấu, đề cao lương tri và lòng nhân nghĩa, ca ngợi tình yêu và sự thủy chung. Là một nhà nho tài hoa sinh bất phùng thời, tác giả Liêu Trai chí dị có điều kiện để sống cuộc sống và học cách nghĩ của nhân dân, nên các giá trị tinh thần mà ông đề cao không chỉ nằm trong khuôn khổ chuẩn mục đạo đức của các môn sinh sân Trình cửa Khổng. Ông hâm mộ viên Phán quan họ Lục hào sảng (Lục phán), ông ca ngợi nàng Anh Ninh như vô tâm mà lại hữu tâm (Anh Ninh), ông tán thưởng thái độ nhân sinh khoáng đạt của ông già họ Chúc coi chết như về (Chúc ông), ông khoái trá về việc bọn tham quan bị quỷ thần trừng trị (Vương giả)... Cũng dễ nhận thấy các nhân vật thần tiên hồ quỷ trong Liêu Trai chí dị đều ít nhiều mang dáng vẻ thị dân, cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhân vật hồ nữ trong Liêu Trai chí dị đều khá phóng túng trong tình dục và hôn nhân, điều này có liên quan tới bối cảnh văn hóa Trung Quốc thời Minh Thanh, khi sự phát triển của tiểu thủ Công nghiệp và thương nghiệp đã dẫn tới sự hình thành các đô thị lớn với đội ngũ thị dân có lối sống phát triển theo xu thế phủ nhận các quy phạm lễ giáo phong kiến. Có thể nói trong Liêu Trai chí dị, Bồ Tùng Linh đã đứng trên lập trường đạo đức của nhân dân lao động mà chủ yếu là thị dân để khẳng định các giá trị tinh thần tốt đẹp và lên án những thế lực chống lại con người. Dĩ nhiên lập trường và tiêu chuẩn ấy có những mâu thuẫn nội tại cũng như những hạn chế lịch sử, như nhận định của Từ hải 1989 “trong sách cũng còn tồn tại một ít quan niệm nhân quả báo ứng và màu sắc mê tín” hay của Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991 “trong sách cũng còn tồn tại quan niệm luân lý phong kiến và màu sắc phong kiến". Tuy nhiên, đúng như K. Marx từng nhận định “Con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điểu kiện trục tiếp có trước mắt, đã có sẵn và do quá khứ để lại"(1), những yếu tố ấy lại mang ý nghĩa tích cực nếu đặt vào bối cảnh xã hội Trung Quốc đương thời. Dưới chế độ phong kiến chuyên chế thời trước thì khát vọng công lý của người dân thấp cổ bé miệng chủ yếu chỉ còn là giấc mộng, nên họ đành tìm tới sự công bằng ở thế giới bên kia. Quan niệm nhân quả báo ứng có nguồn gốc từ Phật giáo vì vậy cũng mau chóng được nhân dân lao động và những người đại diện của họ tiếp nhận như một võ khí tinh thần để khẳng định hệ giá trị của mình và đấu tranh với nhũng bất công xã hội. Việc chọn lựa phương tiện không tương xứng với mục đích như thế là một điều bất đắc dĩ, nhưng rõ ràng trong giới hạn những điều kiện xã hội - nghệ thuật có thật của thời đại và xã hội mình ấy, Bồ Tùng Linh đã nỗ lục để nêu ra một thực trạng tỉnh thần mà cũng là một thông điệp nhân sinh.
1 K. Marx và F. Engels, Tuyển tập, sđd., tập II, tr. 386
Nhận định về truyện ngắn viết cho trẻ em của nhà văn Đan Mạch Hans Christian Andersen (1805-1875), có người đã nói đại ý là trong mỗi truyện ngắn của Andersen có hai câu chuyện, một dành cho trẻ em và một dành cho người lớn. Cũng có thể đưa ra một nhận dịnh tương tự về Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh, vì quả thật nhiều truyện trong tác phẩm - đặc biệt là những truyện có lời bình cũng hàm chứa hai câu chuyện, một là chuyện thần tiên hồ quỷ, một là chuyện người. Những truyện như Tiền lưu, Long hý thù, Điểu ngữ trong quyển X, Hồng mao chiên, Đạo hộ trong quyển XII, Tư huấn, Mạ áp trong quyển XIII... là những ví dụ khá tiêu biểu. Ý đồ bành trướng thế lực - chiếm đoạt thuộc địa của tư bản phương Tây đối với Trung Quốc lúc bấy giờ còn chưa rõ ràng, song hình ảnh tấm nệm Hồng Mao có thể mau lẹ "nở rộng ra hơn một mẫu” trong Hồng mao chiên đã thể hiện nhận thức và dự cảm về tai họa tới từ phương Tây tư bản của một bộ phận trí thức và nhân dân Trung Quốc thời Bồ Tùng Linh. Ý nghĩa hiện thực của Liêu Trai chí dị do đó nhiều khi trở nên sắc nét và có tác động mạnh mẽ lạ thường, vì yếu tố thần kỳ đã nâng cánh cho trí tưởng tượng không chỉ của tác giả mà còn cả của người đọc khi tiếp xúc với tác phẩm. Về phía Bồ Tùng Linh, danh hiệu “Dị Sử thị” cuối lời bình gần 200 truyện trong Liêu Traỉ chí dị còn ít nhiều cho thấy ông mong mượn bộ sách này trở thành một bộ “sử lạ” một bộ sách phản ảnh hiện thực thông qua thi pháp "thuật kỳ ký dị” (thuật chuyện hay, chép chuyện lạ) của dòng truyện truyền kỳ. Có thể nghĩ rằng những truyện chỉ có phần “chí dị” cũng được Bồ Tùng Linh thu thập để biên soạn theo đường hướng nói trên, điều này khiến yếu tố thần kỳ ở đây mang một nội dung chúc năng phức hợp.
Tìm hiểu nghệ thuật Liêu Trai chí dị, dễ nhận thấy sự hiện diện của yếu tố thần kỳ. Là đặc trưng cơ bản trong thi pháp của truyện truyền kỳ thời Đường, yếu tố thần kỳ đến Thái bình quảng ký thời Tống đã được xác định như nội dung nghệ thuật chủ yếu của tiểu thuyết chí quái chí dị, rồi đến thời Minh Thanh đã phát triển thành một phương pháp sáng tác với các tác giả như Bồ Tùng Linh, Viên Mai. Sự vận dụng thi pháp “thuật kỳ ký dị" vào việc phản ảnh hiện thực xã hội trên đường huớng đề cao các giá trị tinh thần nhân dân - thị dân đã khiến dòng tiểu thuyết chí quái chí dị thời Minh Thanh dần dần mang nội dung hiện thực chủ nghĩa. Có thể nói đây là một loại "chủ nghĩa hiện thực huyền ảo" kiểu phương Đông thời cổ, ở đó thế giới thần tiên hồ quỷ trong trí tưởng tượng của con người đã trở thành một phương tiện đặc biệt để phản ảnh hiện thực xã hội và biểu đạt nguyện vọng nhân sinh. Nhưng khác với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo thế kỷ XX, phương pháp sáng tác này ở Bồ Tùng Linh lại có mối liên hệ máu thịt với văn hóa truyền thống, vì Liêu Trai chí dị sử dụng cốt truyện của nhiều truyện cổ lưu hành đương thời và các sáng tác của người trước”, trong đó chắc chắn có không ít là truyện kể dân gian. Không lạ gì mà Liêu Trai chí dị có thể làm say mê cả những người ít học. Bởi vì trong mọi xã hội và thời đại, các yếu tố văn hóa truyền thống luôn sống cuộc sống của chúng không chỉ trong nhũng văn hiến thư tịch hay các công trình khảo cứu của giới trí thức, mà chủ yếu và quan trọng nhất là trong cuộc sống thường nhật với những mối bận tâm chung nhất của đông đảo nhân dân. Đây cũng là một trong những lý do khiến tác phẩm này của Bồ Tùng Linh bắt đầu đuợc phổ biến rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Chắt lọc và kết tinh nhiều yếu tố tinh túy của văn hóa nhân dân, Liêu Trai chí dị mang trong nội dung tư tưởng và nội dung nghệ thuật của nó những sức mạnh to lón của truyền thống, điều này tạo ra một sự đồng cảm giữa tác phẩm với người đọc Việt Nam lúc bấy gìơ đang phải giã từ quá khứ để bước vào xã hội hiện đại trong một tư thế bị động, với một tâm thế bị động dường như vẫn không ngừng được duy trì cho đến tận hôm nay...
Dịch Liêu Trai Chí Dị
Chưa có bằng chứng để xác định thời điểm Liêu Trai chí dị bắt đầu được phổ biến qua Việt Nam, song căn cứ vào niên đại bản in sớm nhất còn lại đến nay của tác phẩm này (bản in Kha Đình năm Càn Long thứ 31 - 1766) thì có thể đoán định sau khi đất nước thống nhất trở lại đầu thế kỷ XIX, người Việt Nam đã biết tới Liêu Trai chí dị. Tình hình tư liệu hiện nay cũng chưa cho phép trả lời câu hỏi người Việt Nam có dịch Liêu Trai chí dị ra chữ Nôm không, song đã có tình hình một số truyện trong Liêu Trai chí dị được sao chép riêng rời như những truyện kể độc lập trong kho sách Hán Nôm Việt Nam, chẳng hạn tập Thư mục Di san Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (Catalogue des livres en Hán Nôm) của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tập II, tr. 99 đã kể cả truyện La Tổ trong bản La Tổ truyện ký hiệu A. 2560 vào thư mục sách Hán Nôm Việt Nam, trong khi đó là truyện La Tổ trong Liêu Trai chí dị, quyển IX: có lẽ người soạn mục từ này đã lầm tưởng địa danh "Tức Mặc” thuộc tỉnh Son Đông ở Trung Quốc trong truyện là Túc Mặc thuộc tỉnh Nam Định ở miền Bắc Việt Nam. Ngoài ra người ta cũng đã thấy trường hợp một số truyện cổ tích Việt Nam lưu truyền đến nay mang dáng dấp cốt truyện, tình tiết một số truyện trong Liêu Trai chí dị như một loại phức thể “song ngữ và song văn hóa”: rõ ràng ngoài việc phổ biến bằng văn bản, tác phẩm này còn được phổ biến với phương thức truyền miệng trong dân gian. Cũng có thể tìm thấy dấu vết ảnh hưởng của Liêu Trai chí dị trong văn học Việt Nam thế kỷ XX qua những câu thơ như “Giấc hồ thơm tóc gái Liêu Trai” của Vũ Hoàng Chương. Tất cả những điều nói trên là kết quả của quá trình tiếp nhận Liêu Trai chí dị ở Việt Nam, quá trình trong đó các bản dịch tác phẩm này ra chữ quốc ngữ latinh thế kỷ XX đóng vai trò tác nhân quan trọng.
Là khu vực sử dụng chữ quốc ngữ latinh như chữ viết chính thức đầu tiên ở Việt Nam, Nam Kỳ Lục tỉnh cũng là khu vực mà các bản dịch Liêu Trai chí dị ra chữ quốc ngữ latinh xuất hiện sớm nhất. Trước Liêu Trai chí di của nhóm Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân (5 quyển, Nhà in J. Viết, Sài Gòn) năm 1916-1918(1), người đọc Lục tỉnh đã được đọc:
bản dịch nhiều truyện trong Liêu Trai chí dị ra tiếng Việt trên báo chí quốc ngữ la tinh, chẳng hạn các bản dịch của Lương Dũ Thúc, Lương Hòa Quý, Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Đoan Khai... trên Nông cổ mín đàm từ 1901(2). Hơn thế nữa, từ Chuyện giải buồn năm 1885, Huỳnh Tịnh Của đã giới thiệu bản dịch một số truyện trong Liêu Trai chí dị, nhưng hàng trăm năm nay nhiều người vẫn tuởng đó là truyện Việt Nam, chẳng hạn truyện Hắc quỷ (Nô lệ da đen) trong Liêu Trai chí dị, quyển XIV: Giao Châu Lý Tổng trấn mãi nhị hắc quỷ, kỳ hắc như tất, túc cách thô hậu, lập nhẫn vi đồ vãng lai kỳ thượng hào vô sở tổn. Tổng trấn phối dĩ xướng, sinh tử nhi bạch, liêu bộc hý chi, vị phi kỳ chủng. Hắc quy diệc tự nghi, nhân sát tử, cốt tắc tận hắc, thủy hối chi. Công mỗi lệnh lưỡng quỷ đối vũ, thần tình diệc khả quan dã. (Tổng trấn họ Lý ở Giao Châu mua được hai tên nô da đen, đen bóng như sơn, da chân chai cộm lên, cắm ngược đao đưa mũi nhọn lên cho họ đạp lên đi lại cũng không hề hấn gì. Tổng trấn cưới kỹ nữ cho làm vợ, sinh được con trai da lại trắng, bọn đầy tớ trong nhà đùa giỡn, nói là không phải con y. Tên nô da đen nghi ngờ, giết chết đứa con thì xương đều đen, mới hối hận. Tổng trấn thường sai hai người đối diện với nhau múa hát, thần thái điệu bộ cũng rất dễ nhìn).
1. Các truyện trong bản dịch Liêu Trai chí dị của Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân in năm 1916-1918: Cuốn thứ nhứt (Aout 1916): Chuyện nàng Liên Tỏa (Liên Tỏa), Chuyện nàng Thanh Phụng (Thanh Phượng), Chuyện nàng Ngũ Thu Nguyệt (Ngũ Thu Nguyệt), Chuyện Diệp Sanh (Diệp sinh), Chuyện ăn mày tiên (Cái tiên), Bói tiền (Bốc tiền), Chuyện mồ Tào Tháo (Tào Tháo trủng), Chuyện Tần Cối (Tần Cối), Chuyện nàng Lăng Giác (Lăng giác), Thay hồn đổi xác (Trường Thanh tăng), Chuyện Trương Hồng Tiệm (Trương Hồng Tiệm). Cuốn thứ nhì (Septembre 1916): Chuyện Trương Hồng Tiệm (tiếp theo), Chuyện nàng Hồng Ngọc (Hồng Ngọc), Chuyện nàng Hằng Nương (Hằng Nương), Tề Thiên Đại thánh (Tề Thiên Đại thánh), Chuyện nàng A Bửu (A Bảo), Chuyện ông Lục Phán quan (Lục Phán quan), Chuyện nàng Hiệp nữ (Hiệp nữ). Cuốn thứ ba (Mars 1917): Chuyện nàng Hiệp nữ (tiếp theo), Chuyện Mao Đại Phước (Mao Đại Phúc), Chuyện nàng Anh Ninh (Anh Ninh), Chuyện nàng Tiểu Mai (Tiểu Mai), Chuyện Châu nhi (Châu nhi), Quả báo (Chiết lâu nhân), Gươm bén (Khoái đao), Chuyện nàng Nhiếp Tiểu Thiến (Nhiếp Tiểu Thiến), Chuyện họ Đỗ (Đỗ thị). Cuốn thứ tư (Novembre 1917): Chuyện họ Đỗ (tiếp theo), Chuyện Trần Sanh ở đất Hà Gian (Hà Gian sinh), Con ngươi nói chuyện (Đồng nhãn ngữ) Chuyện nàng Liên Hương (Liên Hương), Chuyện hai anh em Trương Thành (Trương Thành), Chuyện nàng Trần Vân Thê (Trần Vân Thê), Chuyện người Nhạc Trọng (Nhạc Trọng), Chuyện chàng Đại Nam (Đại Nam), Chuyện người Tăng Hữu Vu (Tăng Hữu Vu). Cuốn thứ năm (Juillet 1918): Chuyện ngươi Tăng Hữu Vu (tiếp theo), Chuyện quan Ngự sử huyện Phong Đô (Phong Đô Ngự sử), Chuyện đám cưới chồn (Hồ giá nữ), Chuyện chàng rể bị ma giấu (Tân lang), Chuyện mưa tiền (Vũ tiền), Chuyện nàng Tiểu Tạ (Tiểu Tạ), Chuyện cỏ Thủy mãng (Thủy mãng thảo), Chuyện nàng Thường Nga (Thường Nga), Chuyện Bành Hải Thu (Bành Hải Thu), Chuyện nàng Trước Thanh (Trúc Thanh).
2. Một số bản dịch Liêu Trai chí dị trên Nông cổ mín đàm: Lương Dũ Thúc, Thương người khác thể thương thân, Ghét người khác thể vun phân cho người, Nông cổ mín đàm, số 5, 6, 7 tháng 8.9.1901, chính là bản dịch truyện Thụy Vân (quyển IV) Lương Dũ Thúc, Tác thiện thiên giáng chi bá tường, số 19 và 20, ngày 5 và 19.12.1901, chính là bẫn dịch truyện Thuy mãng thảo, quyển II.
Lương Hòa Quí, Lộng nguyệt thành tiên, số 25, ngày 23.1.1902, chỉnh là bản dịch trưyện Hồ Tử thư, quyển II.
Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện Hồng Ngoc, số 51 và 53, ngày 14 và 28.8.1902, chính là bản dịch truyện Hồng Ngọc, quyển III.
Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện thần hoa, số 128, ngày 11.1.1904, chính là bản dịch truyện Hoa thần, Phụ lục V, quyển XVI.
Lương Dũ Thúc, Chuột hãy còn có nghĩa, người há chẳng làm nhơn, số 8, ngày 19.9.1901, chính là bản dịch truyện Nghĩa thử, quyển XlII. Lương Dũ Thúc, Nghĩa khuyển, số 9, ngày 26.9.1901, chính là bản dịch truyện Nghĩa khuyển, quyển XIV.
Khuyến Thiện đạo nhân, Hoành tài bất phú, số 49, 50 ngày 31.7 và 7.8.1902 chính là bản dịch truyện Nhiêm Tú, quyển II.
Nguyễn Đoan Khai, Phi ngưu, số 142, ngày 26.5.1904 chính là bản dịch truyện Ngưu phi, quyển XIV.
“Liêu Trai chí dị: tiểu thuyết danh, phàm bát quyển, hoặc tích vi thập lục quyển, kê tứ bách tam thập nhất thiên, Thanh Bồ Tùng Linh soạn. Ký thần tiên hồ quỷ tinh mị cố sự, miêu tả ủy khúc, tự thứ tỉnh nhiên; ngẫu thuật sở văn, diệc đa giản khiết. Mỗi quyển chi mạt, thường xuyết tiểu văn. Cựu thời cực phong hành, kim sảo suy hĩ” (Liêu Trai chí dị: tên tập truyện, gồm 8 quyển, có khi tách làm 16 quyển, tổng cộng 431 truyện, do Bồ Tùng Lỉnh thời Thanh soạn. Nội dung là ghi chép lại chuyện cũ về thần tiên hồ quỷ yêu quái, miêu tả chi tiết, sắp xếp phân minh; có chỗ là kể lại chuyện mình nghe, phần lớn cũng rõ ràng ngắn gọn. Ở cuối mỗi quyển thường thêm lời bình ngắn. Ngày trước được truyền tụng rất rộng rãi, đến nay có giảm đi).
"Liêu Trai chí dị: thư danh, bát quyển, hoặc tích vi thập lục quyển, kê tứ bách tam thập nhất thiên, Thanh Bồ Tùng Linh soạn. Ký thần tiên hồ quỷ tinh mị chi sự, miêu tả ủy khúc, văn từ diễm lệ, tự thứ tỉnh nhiên; ngẫu thuật sở ván, diệc đa giản khiết. Mỗi quyển chi mạt, thường xuyết tiểu văn. Cựu thời cực phong hành" (Liêu Trai chí dị: tên sách, gồm 8 quyển, có khi tách làm 16 quyển, tổng cộng 431 truyện, do Bồ Tùng Linh thời Thanh soạn. Nội dung là ghi chép lại chuyện về thần tiên hồ quỷ yêu quái, miêu tả chi tiết, lời văn đẹp đẽ, sắp xếp phân minh; có chỗ là kể lại chuyện mắt thấy tai nghe, phần lớn cũng rõ ràng ngắn gọn. Ở cuối mỗi quyển thường thêm lời bình ngắn. Ngày trước được truyền tụng rất rộng rãi). "Liêu Trai chí dị: văn ngôn đoản thiên tiểu thuyết tập, Thanh Bồ Tùng Linh tác. Lịch Thành Trương Hy Kiệt đích Chú Tuyết Trai sao bản Liêu Trai chí dị phân vi thập nhị quyển, hữu mục tứ bách bát thập bát thiên. Hiện tồn tối tảo khắc bản vi Thanh Càn Long tam thập nhất niên Thanh Kha Đình bản, tắc phân vi thập lục quyển, tứ bách dư thiên, đãn thiên mục tinh bất hoàn toàn. Giải phóng hậu hoàn phát hiện liễu tác giả đích bán bộ thủ cảo (định cảo bản), tằng ảnh ấn xuất bản, hựu hữu "Hội hiệu hội chú hội bình" bản, sở thu thiên mục hiệu vi hoàn bị. Tác giả dĩ phong phú đích tưởng tượng, tịnh tá giám đương thời lưu hành cố sự dữ tiền nhân chi tác, sáng tạo xuất bất thiểu ưu tú tác phẩm. Cấu tứ kỳ diệu, ngữ ngôn sinh động, dĩ đàm hồ thuyết quỷ đích biểu hiện hình thúc, đối đương thời hiện thực đích hắc ám hòa quan lại đích tội ác phả đa bộc lộ, vu khoa cử chế độ hòa lễ giáo đô hữu sở phê phán; tinh dĩ đồng tình bút điêu miêu hội liễu thanh niên nam nữ chân thành tương ái đích cố sự. Đãn thư trung dã tồn tại trước nhất ta nhân quả báo ứng chi thuyết hòa mê tín sắc thái” (Liêu Trai chí dị: tập truyện ngắn văn ngôn, do Bồ Tùng Linh thời Thanh sáng tác. "Bản sao Liêu Trai chí dị của Chú Tuyết Trai" của Trương Hy Kiệt ở Lịch Thành chia làm 12 quyển, có mục lục gồm 488 truyện. Bản in sớm nhất hiện còn là bản của Kha Đình thời Thanh in năm Càn Long thứ 31 (1766) thì chia làm 16 quyển, hơn 400 truyện, nhưng mục lục cũng không đầy đủ. Sau ngày giải phóng (tức 1949, năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) lại phát hiện được nửa bản viết tay của tác giả (bản thảo hoàn chỉnh), từng in ảnh xuất bản, lại có bản Hội hiệu hội chú hội bình thu thập mục lục đầy đủ hơn cả. Tác giả lấy trí tưởng tượng phong phú, mượn các truyện cổ lưu hành đương thời và các sáng tác của người trước mà sáng tạo ra không ít tác phẩm ưu tú. Kết cấu hay lạ, lời lẽ sinh động, lấy hình thức biểu hiện là chuyện yêu ma hồ quỷ, vạch trần sự đen tối của hiện thực và tội ác của quan lại đương thời, đối với chế độ khoa cử và lễ giáo đều có sự phê phán; lại tỏ thái độ đồng tình khi miêu tả những chuyện cổ về tình yêu chân thành của thanh niên nam nữ. Song trong sách cũng còn tồn tại một ít quan niệm nhân quả báo ứng và màu sắc mê tín). "Liêu Trai chí dị: Thanh đại kiệt xuất đích văn ngôn đoản thiên tiểu thuyết tập. Tác giả Bồ Tùng Linh, thư thành vu Khang Hy niên gian. Thư phân thập nhị quyển, kê tứ bách cửu thập nhất thiên, 1962 niên Trung Hoa thư cục bài ấn bản. Thư trung cố sự đại đa dĩ hồ tiên quỷ mị vi đề tài, cấp phú lãng mạn chủ nghĩa sắc thái nhi hựu câu hữu phong phú đích nội dung hòa thâm khác đích hiện thục chủ nghĩa. Nội dung bao quát đối tham quan ô lại sĩ hào thế thân dĩ cập phủ hủ đích khoa cử chế độ đích khể lộ, đối thanh niên nam nữ chân chính ái tình hôn nhân đích nhiệt tình ca tụng; thử ngoại hoàn hữu nhất ta hữu giáo đục ý nghĩa đích ngụ ngôn cố sự đẳng. Giá ta nội dung chủ yếu bộc lộ liễu phong kiến xã hội đích hắc ám hòa hủ bại, dĩ cập tác giả đối lý tuởng thế giới hòa mỹ hảo nhân vật đích truy cầu, ca tụng. Tiểu thuyết sung mãn kỳ dị khôi lệ đích ảo tưởng, tố tạo nhân vật hủ hủ nhi sinh, hô chi dục xuất, tình tiết điệt đãng đàng ná, sinh động đa biến. Ngử ngôn tinh luyện hàm súc, văn bút lưu sướng truyền thần, “Tả quỷ tả yêu cao nhân nhất đẳng, thích tham thích ngược nhập cốt tam phân", câu hữu độc đặc đích phong cách, tại ngã quốc tiểu thuyết sử thượng chiếm hữu hẩn cao đích địa vị. Đãn thư trung dã tồn tại truớc phong kiến luân lý quan niệm hòa phong kiến sắc thái" (Liêu Trai chí dị: tập truyện ngắn văn ngôn kiệt xuất thời Thanh. Tác giả là Bồ Tùng Linh, sách hoàn thành trong đời Khang Hy (1662-1722). Sách thia làm 12 quyển, gồm 491 truyện, năm 1962 Trung Hoa thư cục đã sắp xếp xuất bản. Truyện trong sách phần lớn là lấy đề tài hồ tiên ma quỷ, có nhiều màu sắc của chủ nghĩa lãng mạn, lại mang nội dung phong phú và chủ nghĩa hiện thực sâu sắc. Nội dung nói chung là tố cáo bọn tham quan ô lại, cường hào ác bá và chế độ khoa cử mục nát, nhiệt tình ca ngợi tình yêu và hôn nhân chân chính của thanh niên nam nữ, ngoài ra còn có một ít truyện cổ loại ngụ ngôn có ý nghĩa giáo dục. Nội dung nói trên chủ yếu là vạch trần sự đen tối và mục ruỗng của xã hội phong kiến đồng thời nói lên sự mong mỏi, ngợi ca của tác giả về một thế giới lý tưởng và những con người tốt đẹp. Tập truyện đầy ắp những sự tưởng tượng lạ lùng đẹp đẽ, nhân vật được sáng tạo sống động chân thực, tình tiết bất ngờ biến ảo. Lời lẽ gọt giũa hàm súc, văn chương trôi chảy linh hoạt, "Tả quỷ tả ma cao bậc nhất, châm tham châm bạo thấu vào xương” đều có phong cách độc đáo đặc biệt, chiếm địa vị rất cao trong lịch sử truyện ngắn của nước ta. Nhưng trong sách cũng còn tồn tại quan niệm luân lý phong kiến và màu sắc phong kiến).
"Liêu Trai chí dị: Thư danh, Thanh Bồ Tùng Linh (1640-1715) trước. Đoản thiên tiểu thuyết tập, thập nhị quyển, nhất tác thập lục quyển, cộng tứ bách tam thập nhất thiên. Tối tảo hữu Chú Tuyết Trai sao bản, Càn Long tam thập nhất niên (1766 niên) Thanh Kha Đình khắc bản, nhị giả phân quyển, thiên mục lược dị. 1949 niên hậu phát hiện bán bộ thủ cảo, 1955 niên do Văn học Cổ tịch san hành xã ảnh ấn, 1978 niên Thuợng Hải Cổ tịch xuất bản xã hữu Trương Hữu Hạc tập hiệu "Hội hiệu hội chú hội bình" bản, hiệu hoàn bị. Cai thư hàm truyền kỳ, chí quái, dị sự đẳng nội dung. Nhiên đa tả hồ quỷ, yêu biến, dị quái cố sự, nghệ thuật thủy bình trăn chí văn ngôn tiểu thuyết đỉnh phong" (Liêu Trai chí dị: tên sách, Bồ Tùng Linh (1640-1715) thời Thanh sáng tác, là tập truyện ngắn, gồm 12 quyển, có khi chia làm 16 quyển, cộng 431 truyện. Cổ nhất có bản sao của Chú Tuyết Trai, năm Càn Long thứ 31 (1766) Kha Đình khắc bản, hai bản chia quyển, mục lục hơi khác nhau. Sau 1949 phát hiện được nửa bản viết tay của tác giả, năm 1955 Văn học cổ tịch san hành xã in ảnh xuất bản, năm 1978 Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã có bản "Hội hiệu hội chú hội bình" của Trương Hữu Hạc tập hợp so sánh các bản, đầy đủ hơn cả. Sách này mang nội dung truyền kỳ, chí quái, việc lạ, nhưng phần lớn kê chuyện cổ hồ quỷ, yêu ma, quái dị, về trình độ nghệ thuật thì đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết văn ngôn).
Trên đây là sáu định nghĩa về mục từ "Liêu Trai chí dị” nêu trong sáu quyển từ điển của Trung Hoa mà theo thứ tự là Từ nguyên (Chính tục biên hợp đính bản), Thương vụ ấn thu quán xuất bản, Thượng Hải, 1939; Từ hai (hợp đính bản), Trung Hoa thư cục xuất bản, Thuợng Hải, 1948; Trung văn đại từ điển. Trung Quốc văn hóa Nghiên cứu sở xuất bản, Đài Bắc, 1962 Từ hải, Tân thư xuất bản xã, Thượng Hải, 1989; Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển, Tác giả xuất bản xã, Bắc Kinh, 1991 và Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển, Quảng Tây dân tộc xuất bản xã, 1994. Dễ nhận ra rằng đặc điểm về mục đích và hoàn cảnh biên soạn riêng biệt của mỗi quyển từ điển đã dẫn tới những khác biệt giữa các định nghĩa nói trên, sự khác biệt thể hiện và phản ảnh quá trình nhận thức và tìm hiểu của người đọc Trung Hoa về Liêu Trai chí dị, song tựu trung sáu định nghĩa ấy đều đề cập tới bốn yếu tố là văn bản, nội dung, ý nghĩa và nghệ thuật của tác phẩm. Việc tìm hiểu giá trị tác phẩm khởi đi từ tổng thể các yếu tố ấy có thể góp phần làm sáng tỏ thêm giá trị và ảnh hưởng của Liêu Trai chí dị, một kiệt tác hàng trăm năm qua từng làm say mê nhiều người đọc Việt Nam.
Về văn bản, Liêu Trai chí dị có một nét đặc biệt. Theo Từ hải 1989 và Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991 thì Liêu Trai chí dị gồm 12 quyển, 488 hay 491 truyện. Các con số trên rõ ràng là dựa theo bản Hội hiệu hội chú hội bình, mà bản này dựa trên cơ sở nửa bản chép tay của Bồ Tùng Linh được phát hiện sau 1949. Tuy nhiên, sự ghi nhận về văn bản Liêu Trai chí dị ở Trung Quốc cũng khá phức tạp. Chẳng hạn Từ nguyên năm 1939 kể là có 16 quyển, 431 truyện, Từ hải 1948 kể là có 8 hoặc 16 quyển, 431 truyện, đến Trung văn đại từ điển xuất bản ở Đài Loan năm 1962 thì vẫn kể ra 8 hoặc 16 quyển, 431 truyện như Tù hải 1948. Tù hải 1989 không nêu rõ, nhưng cũng cho rằng bản Hội hiệu hội chú hội bình là đầy đủ hơn cả, tức cũng tán thành con số 12 quyển, 491 truyện như Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991. Nhưng Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển 1994 lại kể ra 12 (hoặc 16) quyển, 431 truyện, nghĩa là lại quay về với các văn bản truyền thống. Nét đặc biệt này không gì khác hơn là ánh phản của quá trình phổ biến Liêu Trai chí dị ở Trung Quốc nói riêng và ở các quốc gia dùng chữ Hán trước đây nói chung. Chúng tôi không có được các bản in Liêu Trai chí dị 12 quyển để đối chiếu, nhưng Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển có kể ra một số truyện thuộc "Văn hóa Ma Trung Quốc” theo mục lục của các bản này, cụ thể như sau:
Khảo Thành hoàng, Thi biến, Đồng nhân ngữ, Giáo quỷ, Vương Lục lang, Trường Thanh tăng, Tăng nghiệt, Tú thập thiên, Vương Lan, Ung hổ thần, Hoa bì, Thiểm Hữu Mỗ Công, Miếu quỷ, Lục phán, Nhiếp Tiểu Thiến, Thủy mãng thảo, Cảnh Thập bát thuộc quyển I.
Châu nhi, Liên Hương, Trương Thành, Xảo nương, Ngô huyện nhị Thành hoàng, Lâm Tứ nương thuộc quyển II.
Giang trung quỷ quái, Lỗ Công nữ, Lý Trung Chi, Lý Bá Ngôn, Liên Toa, Nê quỷ, Liên Thành, Hoắc sinh, Dụ quỷ, Lý Tư giám thuộc quyển III.
Công Tôn Cửu Nương, Xúc chức, Thổ địa phu nhân, Tục hoàng lương, Liễu Tú tài, Phong Đô Ngự sử, Kỳ quỷ, Tửu cuồng Mục sinh, Bố khách thuộc quyển IV. Chương A Đoan, Lý Thường Cửu kiến Diêm Vương, Thổ ngẫu sinh tử, Trường Trị nữ tu, Ngũ Thu Nguyệt, Liễu thị tử, Đậu thị thuộc quyển V.
Thu Dung dữ Tiếu Tạ, Ải quỷ, Khao tệ ty, Hướng Cảo, Nhiếp Chính xích quyền quý thuộc quyển VI. Mai nữ hòa Phong Vân Đình, Tư tăng bão Phật đầu, Ngưu Thành Chương, Kim Cô phu, Diêm La hoăng, Chu Thương bình oan ngục, Hoạn Nương thuộc quyển VII. Quỷ thê, Chư sinh, Tư văn lang, Trần Tích Cửu, Chu Khắc Xương thuộc quyển 8. Vu Khứ ác, ái Nô, Lưu phu nhân, Ấp nhân tao lăng trì thuộc quyển IX. Bố thương bị cứu, Tịch Phương Bình, Long Phi tướng Công, Thân thị, Nhiệm Tú thuộc quyển X. Vãn Hà dữ A Đoan, Vương Thập, Gia Bình Công tử, Chiết lâu nhân thuộc quyển XI. Lão Long thuyền hộ, Cổ bình, Nguyên Thiếu tiên sinh, Tiết Ủy nương, Điền Tử Thành, Lưu Toàn, Hoàn hầu yến tân, Cẩm Sắt, Phòng Văn Thục, Công Tôn Hạ thuộc quyển XlI.
Ngoài một số truyện có tên khác với trong các bản 16 quyển như Giang trung quỷ quái (Giang trung, quyển XIV), Lý Trung Chi (Diêm La, quyển XIV), Tửu cuồng Mục sinh (Tửu cuồng, quyển XlV), Lý Thường Cửu kiến Diêm Vương (Diêm Vương, quyển XV), Thổ ngẫu sinh tư (Thổ ngẫu, quyển XV), Thu Dung dữ Tiểu Tạ (Tiểu Tạ, quyển IX), Nhiếp Chính hách quyền quý. (Nhiếp Chính, quyển VIII), Mai nữ hòa Phong Vân Đình (Mai nữ, quyển VII), Tử tăng bão Phật đầu (Tử tăng, quyển XIV), Chu Thương bình oan ngục (Oan ngục, quyển IX), Ấp nhân tao lăng trì (ấp nhân, quyển XVI), Bố thương bị cứu (Bố thương, quyển XI), Vãn Hà dữ A Đoam (Vãn Hà, quyển IV), Hoàn hầu yến tân (Hoàn hầu, quyển XII), thì theo nội dung được tóm tắt, có một số truyện không thấy có trong các bản 16 quyển như Ngô Huyện nhị Thành hoàng, Dụ quỷ, Thô địa phu nhân (ngoài ra, bản dịch Liêu Trai chí dị ra chữ quốc ngữ la tinh vào loại sớm nhất ở miền Bắc là Tân Liêu Trai của Vũ Hi Tô * dịch 8 truyện Hương Ngọc, Thư si, Lỗ Công nữ, Phòng Dỹ, Phượng Tiên, Lục y nữ, Chúc Thanh, Chức Thành thì truyện Phòng Dỹ cũng không thấy có trong các bản Liêu Trai chí dị 16 quyển). Tuy nhiên, đó chính là các truyện Ngô lệnh, Dụ quỷ, Nữ quỷ trong Liêu Trai chí dị thập di **. Nhưng đáng nói là chính Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển cũng vừa ghi nhận các truyện Ngô Huyện nhị Thành hoàng, Dụ quỷ, Thổ địa phu nhân trong Liêu Trai chí dị vừa ghi nhận các truyện Ngô lệnh, Dụ quỷ, Nữ quỷ trong Liêu Trai chí dị thập di: rõ ràng các bản Liêu Trai chí dị 12 quyển đã gộp cả Liêu Trai chí dị thập di. Tóm lại Liêu Trai chí dị 12 quyển là sự hợp nhất Liêu Trai chí dị và Liêu Trai chí dị thập di của Bồ Tùng Linh. Có lẽ sau khi biên soạn Liêu Trai chí dị thập di, Bồ Tùng Linh đã tiến hành hợp nhất cả hai làm một với kết cấu 12 quyển có sửa chữa, bổ sung. Công việc này hoặc chưa hoàn tất, hoặc một nửa bản thảo của bản "tập đại thành” nói trên đã bị mất. Cần nói thêm rằng bản Hội hiệu hội chú hội bình cũng có những chỗ chưa hợp lý: nhan đề truyện Mai nữ đã đuợc đổi thành Mai nữ hòa Phong Vân Đình (Cô gái họ Mai và Phong Vân Đình), từ “hòa" (và) này không phải của văn pháp văn ngôn thời Bồ Tùng Linh mà là của văn chương bạch thoại... Rõ ràng vấn đề văn bản Liêu Trai chí dị chưa phải đã chấm dứt ở bản Hội hiệu hội chú hội bình, nên tình hình nói trên cũng cho phép người ta yên tâm khi đọc các văn bản truyền thống gồm Liêu Trai chí dị và Liêu Trai chí dị thập di.
* Tân Liêu Trai, Transcrit en quốc ngữ par Vũ Hi Tô, 1er édition, Đỗ Văn thư quán (ấn). Sửa lại và giữ quyền lợi: Phù Văn Librairie, Hà Nội, 1921-1922. Tất cả 2 quyển, quyển 1 có các truyện Tích nàng Hưong Ngọc (Hương Ngọc), Thư si, Lỗ Công nữ, Phòng Dỹ (?), quyển 2 có các truyện Phương Tiên, Lục y nữ, Chúc Thanh, Chúc Thành.
**. Ở đây chúng tôi theo văn bản trong Liêu Trai chí dị thập di, Minh Đức Đồ thư Công ty xb., Hương Cảng, 1961.
Về Liêu Trai chí di thập di, Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển định nghĩa như sau “Liêu Trai chí dị thập di. Thư danh, Thanh Bồ Tùng Linh soạn, bút ký tiểu thuyết tập, nhất quyển. Cai thư vi Liêu Trai chí dị thập di bộ phận, hữu Dân quốc so niên Thượng Hải Tiến bộ đồ thư cục thạch ấn bản, Bút ký tiểu thuyết đại quan bản. Nội dung đồng tiền thư, thư trung thu hữu Dụ quỷ, Nữ quỷ, Quỷ lại đảng đa điều quỷ thoại" (Liêu Trai chí dị thập di. Tên sách, Bồ Tùng Linh thời Thanh soạn, là một tập bút ký tiểu thuyết, một quyển. Sách này là phần bổ sung của Liêu Trai chí dị, có bản thạch ấn của Thượng Hải Tiến bộ đồ thư cục và bản Bút ký tiểu thuyết đại quan đầu thời Dân quốc. Nội dung cũng như sách trước, thu thập nhiều chuyện ma nhu Dụ quỷ, Nữ quỷ, Quỷ lại). Theo bản Liêu Trai chí dị thập di, Minh Đức Đồ thư Công ty tái bản, Hương Cảng, 1961 mà chúng tôi sử dụng, quyển Thập di này có tất cả 68 truyện (xem Mục lục)
Về con số 431 truyện thì có điểm hơi lạ, vì bản Tường chú Liêu Trai chí di đồ vịnh, Quảng Trí thư cục, Hương Cảng, 1961 (ảnh ấn lại bản in thạch bản Tường chú Liêu Trai chí dị đồ vịnh năm Quang Tự thứ 12 - 1886, gọi tắt là bản Hương Cảng) và bản Túc bản Liêu Trai chí dị, Đại Trung Quốc Đồ thư Công ty, Đài Bắc, 1963 (gọi tắt là bản Đài Bắc) đều có 432 truyện (Từ điển tác gia văn học và sân khấu nước ngoài, Hữu Ngọc chủ biên, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1980 cũng ghi nhận con số này). Trong hoàn cảnh tư liệu hiện nay chúng tôi chưa tìm hiểu được vấn đề nói trên, nên căn cứ vào thực tế văn bản của hai bản Hương Cảng và Đài Bắc có trong tay, tạm thời chấp nhận con số 432 truyện. Như vậy, kể cả 68 truyện trong quyển Thập di, Liêu Trai chí di có đúng 500 truyện, không kể một số truyện trong các tài liệu khác được chép phụ vào. Tìm hiểu văn bản Liêu Trai chí dị ngoài tác dụng góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành của tác phẩm còn ít nhiều có tác dụng trực tiếp trong việc tìm hiểu nội dung và ý nghĩa các truyện trong tác phẩm. Nhìn từ kết cấu hình thức, các truyện trong Liêu Trai chí dị gồm hai loại: một loại có lời bình của tác giả, phần nhiều có ghi "Dị Sử thị nói" (193 truyện, trong đó phần Thập di có 7 truyện, nếu kể cả nhũng truyện có lời bình nhưng không ghi “Dị Sử thị nói" như Phục hỏa trong quyển II, Thủy tai trong quyển III, A Hà trong quyển VI, Thâu đào, Khâu kỹ trong quyển XIII thì có trên 200) và một loại chỉ có phần “chí dị”. Quan sát các bản 16 quyển, có thể thấy các truyện có lời bình "Dị Sử thị nói" tập trung trong khoảng mười hai quyển đầu (121/233 truyện), các truyện này nhìn chung khá dài, có bố cục chặt chẽ, cốt truyện rõ ràng, còn các truyện không có lời bình chủ yếu tập trung ở bốn quyển cuối (134/199 truyện) và quyển Thập di (61/68 truyện), nội dung khá đơn giản, thậm chí có khi chỉ gồm vài mươi chữ. Rõ ràng Liêu Trai chí dị còn đang trong giai đoạn bổ sung, sửa chữa, nhất là những truyện chỉ có phần "chí dị". Nói một cách hình tượng thì Liêu Trai chí dị giống một bộ tranh liên hoàn đang vẽ dở dang, có bức đã tỉa tót tô điểm tới từng chi tiết, nhung có búc chỉ mới có vài nét phác họa đầu tiên. Tình hình văn bản chưa hoàn chỉnh như vậy một mặt dễ đưa tới nhũng ngộ nhận về nội dung cụ thể của từng truyện, mặt khác cũng ít nhiều hạn chế việc tìm hiểu ý nghĩa đích thực của toàn bộ tác phẩm.
Về nội dung, các truyện có lời bình trong Liêu Trai chí dị nói chung mang màu sắc đạo đức, lên án bọn tham quan ô lại, phê phán những thói hư tật xấu, đề cao lương tri và lòng nhân nghĩa, ca ngợi tình yêu và sự thủy chung. Là một nhà nho tài hoa sinh bất phùng thời, tác giả Liêu Trai chí dị có điều kiện để sống cuộc sống và học cách nghĩ của nhân dân, nên các giá trị tinh thần mà ông đề cao không chỉ nằm trong khuôn khổ chuẩn mục đạo đức của các môn sinh sân Trình cửa Khổng. Ông hâm mộ viên Phán quan họ Lục hào sảng (Lục phán), ông ca ngợi nàng Anh Ninh như vô tâm mà lại hữu tâm (Anh Ninh), ông tán thưởng thái độ nhân sinh khoáng đạt của ông già họ Chúc coi chết như về (Chúc ông), ông khoái trá về việc bọn tham quan bị quỷ thần trừng trị (Vương giả)... Cũng dễ nhận thấy các nhân vật thần tiên hồ quỷ trong Liêu Trai chí dị đều ít nhiều mang dáng vẻ thị dân, cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhân vật hồ nữ trong Liêu Trai chí dị đều khá phóng túng trong tình dục và hôn nhân, điều này có liên quan tới bối cảnh văn hóa Trung Quốc thời Minh Thanh, khi sự phát triển của tiểu thủ Công nghiệp và thương nghiệp đã dẫn tới sự hình thành các đô thị lớn với đội ngũ thị dân có lối sống phát triển theo xu thế phủ nhận các quy phạm lễ giáo phong kiến. Có thể nói trong Liêu Trai chí dị, Bồ Tùng Linh đã đứng trên lập trường đạo đức của nhân dân lao động mà chủ yếu là thị dân để khẳng định các giá trị tinh thần tốt đẹp và lên án những thế lực chống lại con người. Dĩ nhiên lập trường và tiêu chuẩn ấy có những mâu thuẫn nội tại cũng như những hạn chế lịch sử, như nhận định của Từ hải 1989 “trong sách cũng còn tồn tại một ít quan niệm nhân quả báo ứng và màu sắc mê tín” hay của Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991 “trong sách cũng còn tồn tại quan niệm luân lý phong kiến và màu sắc phong kiến". Tuy nhiên, đúng như K. Marx từng nhận định “Con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điểu kiện trục tiếp có trước mắt, đã có sẵn và do quá khứ để lại"(1), những yếu tố ấy lại mang ý nghĩa tích cực nếu đặt vào bối cảnh xã hội Trung Quốc đương thời. Dưới chế độ phong kiến chuyên chế thời trước thì khát vọng công lý của người dân thấp cổ bé miệng chủ yếu chỉ còn là giấc mộng, nên họ đành tìm tới sự công bằng ở thế giới bên kia. Quan niệm nhân quả báo ứng có nguồn gốc từ Phật giáo vì vậy cũng mau chóng được nhân dân lao động và những người đại diện của họ tiếp nhận như một võ khí tinh thần để khẳng định hệ giá trị của mình và đấu tranh với nhũng bất công xã hội. Việc chọn lựa phương tiện không tương xứng với mục đích như thế là một điều bất đắc dĩ, nhưng rõ ràng trong giới hạn những điều kiện xã hội - nghệ thuật có thật của thời đại và xã hội mình ấy, Bồ Tùng Linh đã nỗ lục để nêu ra một thực trạng tỉnh thần mà cũng là một thông điệp nhân sinh.
1 K. Marx và F. Engels, Tuyển tập, sđd., tập II, tr. 386
Nhận định về truyện ngắn viết cho trẻ em của nhà văn Đan Mạch Hans Christian Andersen (1805-1875), có người đã nói đại ý là trong mỗi truyện ngắn của Andersen có hai câu chuyện, một dành cho trẻ em và một dành cho người lớn. Cũng có thể đưa ra một nhận dịnh tương tự về Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh, vì quả thật nhiều truyện trong tác phẩm - đặc biệt là những truyện có lời bình cũng hàm chứa hai câu chuyện, một là chuyện thần tiên hồ quỷ, một là chuyện người. Những truyện như Tiền lưu, Long hý thù, Điểu ngữ trong quyển X, Hồng mao chiên, Đạo hộ trong quyển XII, Tư huấn, Mạ áp trong quyển XIII... là những ví dụ khá tiêu biểu. Ý đồ bành trướng thế lực - chiếm đoạt thuộc địa của tư bản phương Tây đối với Trung Quốc lúc bấy giờ còn chưa rõ ràng, song hình ảnh tấm nệm Hồng Mao có thể mau lẹ "nở rộng ra hơn một mẫu” trong Hồng mao chiên đã thể hiện nhận thức và dự cảm về tai họa tới từ phương Tây tư bản của một bộ phận trí thức và nhân dân Trung Quốc thời Bồ Tùng Linh. Ý nghĩa hiện thực của Liêu Trai chí dị do đó nhiều khi trở nên sắc nét và có tác động mạnh mẽ lạ thường, vì yếu tố thần kỳ đã nâng cánh cho trí tưởng tượng không chỉ của tác giả mà còn cả của người đọc khi tiếp xúc với tác phẩm. Về phía Bồ Tùng Linh, danh hiệu “Dị Sử thị” cuối lời bình gần 200 truyện trong Liêu Traỉ chí dị còn ít nhiều cho thấy ông mong mượn bộ sách này trở thành một bộ “sử lạ” một bộ sách phản ảnh hiện thực thông qua thi pháp "thuật kỳ ký dị” (thuật chuyện hay, chép chuyện lạ) của dòng truyện truyền kỳ. Có thể nghĩ rằng những truyện chỉ có phần “chí dị” cũng được Bồ Tùng Linh thu thập để biên soạn theo đường hướng nói trên, điều này khiến yếu tố thần kỳ ở đây mang một nội dung chúc năng phức hợp.
Tìm hiểu nghệ thuật Liêu Trai chí dị, dễ nhận thấy sự hiện diện của yếu tố thần kỳ. Là đặc trưng cơ bản trong thi pháp của truyện truyền kỳ thời Đường, yếu tố thần kỳ đến Thái bình quảng ký thời Tống đã được xác định như nội dung nghệ thuật chủ yếu của tiểu thuyết chí quái chí dị, rồi đến thời Minh Thanh đã phát triển thành một phương pháp sáng tác với các tác giả như Bồ Tùng Linh, Viên Mai. Sự vận dụng thi pháp “thuật kỳ ký dị" vào việc phản ảnh hiện thực xã hội trên đường huớng đề cao các giá trị tinh thần nhân dân - thị dân đã khiến dòng tiểu thuyết chí quái chí dị thời Minh Thanh dần dần mang nội dung hiện thực chủ nghĩa. Có thể nói đây là một loại "chủ nghĩa hiện thực huyền ảo" kiểu phương Đông thời cổ, ở đó thế giới thần tiên hồ quỷ trong trí tưởng tượng của con người đã trở thành một phương tiện đặc biệt để phản ảnh hiện thực xã hội và biểu đạt nguyện vọng nhân sinh. Nhưng khác với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo thế kỷ XX, phương pháp sáng tác này ở Bồ Tùng Linh lại có mối liên hệ máu thịt với văn hóa truyền thống, vì Liêu Trai chí dị sử dụng cốt truyện của nhiều truyện cổ lưu hành đương thời và các sáng tác của người trước”, trong đó chắc chắn có không ít là truyện kể dân gian. Không lạ gì mà Liêu Trai chí dị có thể làm say mê cả những người ít học. Bởi vì trong mọi xã hội và thời đại, các yếu tố văn hóa truyền thống luôn sống cuộc sống của chúng không chỉ trong nhũng văn hiến thư tịch hay các công trình khảo cứu của giới trí thức, mà chủ yếu và quan trọng nhất là trong cuộc sống thường nhật với những mối bận tâm chung nhất của đông đảo nhân dân. Đây cũng là một trong những lý do khiến tác phẩm này của Bồ Tùng Linh bắt đầu đuợc phổ biến rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Chắt lọc và kết tinh nhiều yếu tố tinh túy của văn hóa nhân dân, Liêu Trai chí dị mang trong nội dung tư tưởng và nội dung nghệ thuật của nó những sức mạnh to lón của truyền thống, điều này tạo ra một sự đồng cảm giữa tác phẩm với người đọc Việt Nam lúc bấy gìơ đang phải giã từ quá khứ để bước vào xã hội hiện đại trong một tư thế bị động, với một tâm thế bị động dường như vẫn không ngừng được duy trì cho đến tận hôm nay...
Dịch Liêu Trai Chí Dị
Chưa có bằng chứng để xác định thời điểm Liêu Trai chí dị bắt đầu được phổ biến qua Việt Nam, song căn cứ vào niên đại bản in sớm nhất còn lại đến nay của tác phẩm này (bản in Kha Đình năm Càn Long thứ 31 - 1766) thì có thể đoán định sau khi đất nước thống nhất trở lại đầu thế kỷ XIX, người Việt Nam đã biết tới Liêu Trai chí dị. Tình hình tư liệu hiện nay cũng chưa cho phép trả lời câu hỏi người Việt Nam có dịch Liêu Trai chí dị ra chữ Nôm không, song đã có tình hình một số truyện trong Liêu Trai chí dị được sao chép riêng rời như những truyện kể độc lập trong kho sách Hán Nôm Việt Nam, chẳng hạn tập Thư mục Di san Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (Catalogue des livres en Hán Nôm) của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tập II, tr. 99 đã kể cả truyện La Tổ trong bản La Tổ truyện ký hiệu A. 2560 vào thư mục sách Hán Nôm Việt Nam, trong khi đó là truyện La Tổ trong Liêu Trai chí dị, quyển IX: có lẽ người soạn mục từ này đã lầm tưởng địa danh "Tức Mặc” thuộc tỉnh Son Đông ở Trung Quốc trong truyện là Túc Mặc thuộc tỉnh Nam Định ở miền Bắc Việt Nam. Ngoài ra người ta cũng đã thấy trường hợp một số truyện cổ tích Việt Nam lưu truyền đến nay mang dáng dấp cốt truyện, tình tiết một số truyện trong Liêu Trai chí dị như một loại phức thể “song ngữ và song văn hóa”: rõ ràng ngoài việc phổ biến bằng văn bản, tác phẩm này còn được phổ biến với phương thức truyền miệng trong dân gian. Cũng có thể tìm thấy dấu vết ảnh hưởng của Liêu Trai chí dị trong văn học Việt Nam thế kỷ XX qua những câu thơ như “Giấc hồ thơm tóc gái Liêu Trai” của Vũ Hoàng Chương. Tất cả những điều nói trên là kết quả của quá trình tiếp nhận Liêu Trai chí dị ở Việt Nam, quá trình trong đó các bản dịch tác phẩm này ra chữ quốc ngữ latinh thế kỷ XX đóng vai trò tác nhân quan trọng.
Là khu vực sử dụng chữ quốc ngữ latinh như chữ viết chính thức đầu tiên ở Việt Nam, Nam Kỳ Lục tỉnh cũng là khu vực mà các bản dịch Liêu Trai chí dị ra chữ quốc ngữ latinh xuất hiện sớm nhất. Trước Liêu Trai chí di của nhóm Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân (5 quyển, Nhà in J. Viết, Sài Gòn) năm 1916-1918(1), người đọc Lục tỉnh đã được đọc:
bản dịch nhiều truyện trong Liêu Trai chí dị ra tiếng Việt trên báo chí quốc ngữ la tinh, chẳng hạn các bản dịch của Lương Dũ Thúc, Lương Hòa Quý, Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Đoan Khai... trên Nông cổ mín đàm từ 1901(2). Hơn thế nữa, từ Chuyện giải buồn năm 1885, Huỳnh Tịnh Của đã giới thiệu bản dịch một số truyện trong Liêu Trai chí dị, nhưng hàng trăm năm nay nhiều người vẫn tuởng đó là truyện Việt Nam, chẳng hạn truyện Hắc quỷ (Nô lệ da đen) trong Liêu Trai chí dị, quyển XIV: Giao Châu Lý Tổng trấn mãi nhị hắc quỷ, kỳ hắc như tất, túc cách thô hậu, lập nhẫn vi đồ vãng lai kỳ thượng hào vô sở tổn. Tổng trấn phối dĩ xướng, sinh tử nhi bạch, liêu bộc hý chi, vị phi kỳ chủng. Hắc quy diệc tự nghi, nhân sát tử, cốt tắc tận hắc, thủy hối chi. Công mỗi lệnh lưỡng quỷ đối vũ, thần tình diệc khả quan dã. (Tổng trấn họ Lý ở Giao Châu mua được hai tên nô da đen, đen bóng như sơn, da chân chai cộm lên, cắm ngược đao đưa mũi nhọn lên cho họ đạp lên đi lại cũng không hề hấn gì. Tổng trấn cưới kỹ nữ cho làm vợ, sinh được con trai da lại trắng, bọn đầy tớ trong nhà đùa giỡn, nói là không phải con y. Tên nô da đen nghi ngờ, giết chết đứa con thì xương đều đen, mới hối hận. Tổng trấn thường sai hai người đối diện với nhau múa hát, thần thái điệu bộ cũng rất dễ nhìn).
1. Các truyện trong bản dịch Liêu Trai chí dị của Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân in năm 1916-1918: Cuốn thứ nhứt (Aout 1916): Chuyện nàng Liên Tỏa (Liên Tỏa), Chuyện nàng Thanh Phụng (Thanh Phượng), Chuyện nàng Ngũ Thu Nguyệt (Ngũ Thu Nguyệt), Chuyện Diệp Sanh (Diệp sinh), Chuyện ăn mày tiên (Cái tiên), Bói tiền (Bốc tiền), Chuyện mồ Tào Tháo (Tào Tháo trủng), Chuyện Tần Cối (Tần Cối), Chuyện nàng Lăng Giác (Lăng giác), Thay hồn đổi xác (Trường Thanh tăng), Chuyện Trương Hồng Tiệm (Trương Hồng Tiệm). Cuốn thứ nhì (Septembre 1916): Chuyện Trương Hồng Tiệm (tiếp theo), Chuyện nàng Hồng Ngọc (Hồng Ngọc), Chuyện nàng Hằng Nương (Hằng Nương), Tề Thiên Đại thánh (Tề Thiên Đại thánh), Chuyện nàng A Bửu (A Bảo), Chuyện ông Lục Phán quan (Lục Phán quan), Chuyện nàng Hiệp nữ (Hiệp nữ). Cuốn thứ ba (Mars 1917): Chuyện nàng Hiệp nữ (tiếp theo), Chuyện Mao Đại Phước (Mao Đại Phúc), Chuyện nàng Anh Ninh (Anh Ninh), Chuyện nàng Tiểu Mai (Tiểu Mai), Chuyện Châu nhi (Châu nhi), Quả báo (Chiết lâu nhân), Gươm bén (Khoái đao), Chuyện nàng Nhiếp Tiểu Thiến (Nhiếp Tiểu Thiến), Chuyện họ Đỗ (Đỗ thị). Cuốn thứ tư (Novembre 1917): Chuyện họ Đỗ (tiếp theo), Chuyện Trần Sanh ở đất Hà Gian (Hà Gian sinh), Con ngươi nói chuyện (Đồng nhãn ngữ) Chuyện nàng Liên Hương (Liên Hương), Chuyện hai anh em Trương Thành (Trương Thành), Chuyện nàng Trần Vân Thê (Trần Vân Thê), Chuyện người Nhạc Trọng (Nhạc Trọng), Chuyện chàng Đại Nam (Đại Nam), Chuyện người Tăng Hữu Vu (Tăng Hữu Vu). Cuốn thứ năm (Juillet 1918): Chuyện ngươi Tăng Hữu Vu (tiếp theo), Chuyện quan Ngự sử huyện Phong Đô (Phong Đô Ngự sử), Chuyện đám cưới chồn (Hồ giá nữ), Chuyện chàng rể bị ma giấu (Tân lang), Chuyện mưa tiền (Vũ tiền), Chuyện nàng Tiểu Tạ (Tiểu Tạ), Chuyện cỏ Thủy mãng (Thủy mãng thảo), Chuyện nàng Thường Nga (Thường Nga), Chuyện Bành Hải Thu (Bành Hải Thu), Chuyện nàng Trước Thanh (Trúc Thanh).
2. Một số bản dịch Liêu Trai chí dị trên Nông cổ mín đàm: Lương Dũ Thúc, Thương người khác thể thương thân, Ghét người khác thể vun phân cho người, Nông cổ mín đàm, số 5, 6, 7 tháng 8.9.1901, chính là bản dịch truyện Thụy Vân (quyển IV) Lương Dũ Thúc, Tác thiện thiên giáng chi bá tường, số 19 và 20, ngày 5 và 19.12.1901, chính là bẫn dịch truyện Thuy mãng thảo, quyển II.
Lương Hòa Quí, Lộng nguyệt thành tiên, số 25, ngày 23.1.1902, chỉnh là bản dịch trưyện Hồ Tử thư, quyển II.
Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện Hồng Ngoc, số 51 và 53, ngày 14 và 28.8.1902, chính là bản dịch truyện Hồng Ngọc, quyển III.
Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện thần hoa, số 128, ngày 11.1.1904, chính là bản dịch truyện Hoa thần, Phụ lục V, quyển XVI.
Lương Dũ Thúc, Chuột hãy còn có nghĩa, người há chẳng làm nhơn, số 8, ngày 19.9.1901, chính là bản dịch truyện Nghĩa thử, quyển XlII. Lương Dũ Thúc, Nghĩa khuyển, số 9, ngày 26.9.1901, chính là bản dịch truyện Nghĩa khuyển, quyển XIV.
Khuyến Thiện đạo nhân, Hoành tài bất phú, số 49, 50 ngày 31.7 và 7.8.1902 chính là bản dịch truyện Nhiêm Tú, quyển II.
Nguyễn Đoan Khai, Phi ngưu, số 142, ngày 26.5.1904 chính là bản dịch truyện Ngưu phi, quyển XIV.